Không cần nói thì cũng có thể thấy là truyền thông đang ngày càng có một sức mạnh và sức ảnh hưởng lớn tới thế giới của chúng ta. Với sự phát triển của mạng xã hội thì con người đang ngày càng kết nối với nhau nhiều hơn, như vậy sẽ tranh luận nhiều hơn, tạo ra nhiều dư luận xã hội hơn. Không ít những cuộc chiến tranh luận nổ ra trên mạng về đủ mọi vấn đề, chúng ta tham gia vào nó, và bị nó chi phối quan điểm. Nếu không có một cái nhìn tỉnh táo và tư duy logic thì rất dễ bị dắt mũi theo định hướng của các nhà truyền thông và dư luận xã hội.
Trong quá trình nghiên cứu về tranh biện, mình có tìm thấy một số tài liệu khá hay trên mạng, đồng thời từ bộ sách Cãi gì cũng thắng / Viết gì cũng đúng của Alphabooks (khá hay), nên tổng hợp và share lại lên blog cá nhân.
Trong quá trình nghiên cứu về tranh biện, mình có tìm thấy một số tài liệu khá hay trên mạng, đồng thời từ bộ sách Cãi gì cũng thắng / Viết gì cũng đúng của Alphabooks (khá hay), nên tổng hợp và share lại lên blog cá nhân.
Nói một cách đơn giản, ngụy biện là những nhầm lẫn trong lí luận và suy
luận. Ngụy biện khác với logic. Logic, nói một cách ngắn gọn trong
trường hợp này, là những luật lệ hay qui tắc quản lí tính nhất quán
trong việc sử dụng ngôn ngữ. Từ nhiều thế kỉ qua, giới triết học Tây
phương đã bỏ khá nhiều công sức để phân biệt thế nào là logic và thế nào
là ngụy biện. Aristotle là một nhà logic học đầu tiên có công phát
triển các qui tắc và hệ thống suy luận. Trong quá trình làm việc, ông
phát hiện ra nhiều lỗi lầm mà sau này người ta quen gọi là những “ngụy
biện.” Mặc dù Aristotle là một nhà nhà logic học đầu tiên có công liệt
kê và phân loại những loại ngụy biện, thầy của ông (Plato) mới xứng đáng
được vinh danh như là một nhà triết học đầu tiên đã có công sưu tầm
những ví dụ về ngụy biện. Kể từ khi Plato và Aristotle, đã có khá nhiều
nhà triết học và logic học như John Locke, John Stuart Mill, Jeremy
Bentham, và Arthur Schopenhauer cũng có nhiều cống hiến quan trọng trong
việc nghiên cứu về ngụy biện.
Nhóm 1. Thay đổi chủ đề
1. Công kích cá nhân (ad hominem). Đây là một loại ngụy
biện phổ biến nhất, nguy hiểm nhất, và có “công hiệu” nhất, vì nó tấn
công vào cá nhân của người tranh luận, và tìm cách trốn tránh luận điểm
của cá nhân đó. Hình thức ngụy biện này thường xuất hiện dưới dạng: Ông A
phát biểu về một vấn đề; ông B tấn công vào cá nhân ông A, và làm cho
người ta nghi ngờ luận điểm của ông A. Tuy nhiên, có thể không có mối
liên hệ nào giữa cá nhân và luận điểm của ông A.
Có hai hình thức thuộc loại ngụy biện này. Thứ nhất là dưới hình
thức sỉ nhục, hay chửi rủa. Khi bất đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ
việc công kích vào cá nhân của người phát biểu. Chẳng hạn như “Ông nói
là những người vô thần có đạo đức, vậy mà chính ông là người từng li dị
với vợ con,” hay “Ông ta đang làm ăn với phía Việt Nam, tất nhiên ông ta
phải nói tốt về Việt Nam”. Đây là một ngụy biện, bởi vì sự thật của
phát biểu không tùy thuộc vào cá nhân của người phát biểu mà là logic
của lời phát biểu. Một cách ngụy biện khác cũng dựa vào cách nói này là
dùng một nhân vật khác, chẳng hạn như “Vậy thì chúng ta hãy đóng cửa nhà
thờ cả đi. Hitler đã chắc hẳn sẽ đồng ý với anh.”
Hình thức ngụy biện thứ hai trong loại này là người ngụy biện cố
gắng thuyết phục người đối thoại chấp nhận luận điểm của họ bằng cách đề
cập đến hoàn cảnh của cá nhân đó. Ví dụ: “Anh nói là không nên uống
rượu, vậy mà anh đã từng ngất ngưởng cả năm qua.”
Cũng nằm trong loại ngụy biện này là thói dùng một đặc điểm của
một vật thể nào đó để ứng dụng cho một cá nhân hay một vật thể khác. Ví
dụ: “Anh theo học trong một trường dành cho con nhà giàu. Do đó, anh là
một người giàu có, anh không hiểu gì về sự nghèo khổ.”
2. Lợi dụng quyền lực (ad verecundiam). Đây là loại
ngụy biện dùng những nhân vật nổi tiếng hay được nhiều người ái mộ để
tìm sự ủng hộ cho luận điểm của mình. Chẳng hạn như “Isaac Newton là một
thiên tài, và ông tin vào Thượng đế.” Đây không hẳn là một lí lẽ hư, nó
có thể có liên hệ đến một nhân vật có uy tín trong một lĩnh vực nào đó,
nếu người ta thảo luận về lĩnh vực đó. Chẳng hạn như phải phân biệt
giữa hai phát biểu “Ông Hawking (Stephen Hawking, nhà Vật lí Lí thuyết
đương đại nổi tiếng người Anh) kết luận rằng những lỗ đen (black holes)
có thể phát ra phóng xạ”, và “Ông Penrose cho rằng xây dựng một cái máy
điện toán thông minh là một điều có thể làm được.” Nếu ông Hawking là
một nhà vật lí thì chúng ta có thể tin vào ý kiến của ông về những lỗ
đen. Nhưng nếu ông Penrose là một nhà toán học, thì chúng ta có quyền
chất vấn ông ta có đủ thẩm quyền để bàn về đề tài thông minh nhân tạo
hay không?
3. Lợi dụng quyền lực nặc danh. Trong trường hợp này,
người ngụy biện không nêu danh tính người có thẩm quyền, và vì không ai
biết tên người có thẩm quyền nên không ai có thể kiểm chứng sự chính xác
của lời phát biểu. Một loại ngụy biện khác có quan hệ với loại này là
dùng lời đồn đại để làm cơ sở lập luận. Ví dụ như “Một viên chức tình
báo trong chính phủ Úc cho rằng chính anh từng hoạt động cho địch.”
4. Lợi dụng tác phong. Loại ngụy biện này dùng tác phong
hay cách làm việc hay một đặc tính nào đó của đối tượng để cố thuyết
phục về sự hợp lí của phát biểu. Tiêu biểu cho loại ngụy biện này là
những phát biểu như “Nixon thất cử vì ông ta thường hay ra mồ hôi trên
trán,” hay “Tại sao anh không nghe theo lời khuyên của anh chàng ăn mặc
bảnh bao đó?” Thực ra, “bảnh bao” và “mồ hôi trên trán” chẳng có dính
dáng gì đến vấn đề đang bàn thảo.
5. Luận điệu cá trích. Loại ngụy biện này thường hay được
ứng dụng khi một người nào đó đưa vào những phát biểu không dính dáng gì
đến vấn đề đang tranh luận, nhằm mục đích đánh lạc hướng vấn đề. Ví dụ:
“Anh có thể nói rằng tử hình là một hình thức không có hiệu quả trong
việc chống lại tội phạm, nhưng còn nạn nhân của tội phạm thì sao? Gia
đình của nạn nhân sẽ nghĩ gì khi họ thấy tên sát nhân người thân của họ
bị giam giữ trong nhà tù bằng đồng tiền của chính họ. Họ có nên nuôi
dưỡng những tên sát nhân như thế không?”
6. Luận điệu ngược ngạo. Bằng chứng luôn luôn là gánh nặng
của người phát biểu. Do đó, tìm cách di chuyển gánh nặng đó cho một
người khác là một thủ thuật giới ngụy biện hay dùng. Chẳng hạn như trong
câu này “Được rồi, vậy anh không tin là có người ngoài hành tinh đã
từng chi phối đến chính phủ Mỹ, nhưng anh có thể chứng minh điều đó
không,” đáng lẽ người phát biểu phải chứng minh, nhưng công việc đó lại
được chuyển cho người đối thoại!
Nhóm 2. Lợi dụng cảm tính và đám đông
7. Dựa vào bạo lực (ad baculum). Ngụy biện dựa vào bạo
lực thực chất là một sự đe dọa, nhằm mục đích gây áp lực cho người đối
thoại phải chấp nhận một kết luận nào đó. Loại ngụy biện này thưởng được
giới chính khách dùng, và có thể tóm gọn bằng một câu “chân lí thuộc về
kẻ mạnh”. Sự đe dọa không hẳn chỉ xuất phát từ người phát biểu, mà có
thể từ một người khác. Ví dụ như “Những ai không tin vào Kinh thánh sẽ
bị thiêu cháy dưới đáy địa ngục”, hay “Thôi được rồi, tôi đã biết số
điện thoại của anh và biết anh đang ở đâu. À, tôi có nói cho anh biết là
tôi có giấy phép mang súng chưa nhỉ?”
8. Lợi dụng lòng thương hại (ad misericordiam). Đây
là một loại ngụy biện dựa vào lòng trắc ẩn của người đối thoại để người
đối thoại chấp nhận lí lẽ của mình. Ví dụ như “Anh ấy không có giết
người bằng búa. Làm ơn đừng tuyên án anh ấy có tội, anh ấy đang trải qua
một giai đoạn khủng hoảng tinh thần,” hay “Tôi hi vọng anh sẽ chấp nhận
đề nghị này, chúng ta đã tiêu ra ba tháng nay rồi đấy.”
9. Lợi dụng hậu quả (ad consequentiam). Ngụy biện
loại này thường được biểu hiện qua cách phát biểu “A hàm ý B, B là sự
thật, do đó A là sự thật”. Ví dụ: “Nếu vũ trụ được một đấng chí tôn
thượng đế tạo nên, chúng ta có thể thấy những hiện tượng được tổ chức
một cách thứ tự. Và hiện tượng chung quanh chúng ta quả rất thứ tự, vậy
đấng chí tôn thượng đế chính là người tạo nên vũ trụ,” hay “Anh phải tin
vào Thượng đế, chứ nếu không cuộc đời này sẽ chẳng có ý nghĩa” (hay là
nói một cách ngược lại: cuộc sống này chẳng có ý nghĩa gì nếu Thượng đế
hiện hữu!)
10. Lạm dụng chữ nghĩa. Đây là một loại ngụy biện dựa vào
dùng những chữ mang cảm tính cao để gắn một giá trị đạo đức vào một đề
nghị hay một câu phát biểu. Chẳng hạn như trong câu “Bất cứ một người có
lương tri nào cũng phải đồng ý rằng về Việt Nam ăn Tết là làm lợi cho
cộng sản,” chữ “lương tri” được cài vào nhằm cho người đối thoại phải
nghiêng theo những người có lương tri.
11. Dựa vào quần chúng (ad numerum). Loại ngụy biện
này tin rằng nếu có nhiều người ủng hộ một đề nghị nào đó, thì đề nghị
đó phải đúng. Ví dụ như “Đại đa số người dân trong cộng đồng ủng hộ ông
Minh, vậy phát biểu của ông Minh ắt phải đúng.” Liên hệ với loại ngụy
biện này là hình thức tranh thủ sự ủng hộ của đám đông để cố gắng cho
thấy luận điểm của mình là đúng. Ví dụ: “Ai cũng biết Bộ Y tế làm là
đúng, sao anh dám nói là sai? Hay là anh muốn nói chúng tôi là những kẻ
ngu xuẩn?”
Nhóm 3. Làm lạc hướng vấn đề
12. Lí lẽ chẻ đôi. Loại ngụy biện này thường phân định một vấn
đề thành hai giá trị: trắng và đen, bạn và thù, có và không, v.v.. dù
trong thực tế, có hơn hai lựa chọn. Chẳng hạn như “Hoặc là anh hợp tác
với tôi hay là anh chống tôi, anh chọn hướng nào, yes hay là no?”, hay
“Đối với Mỹ, anh chỉ có hai lựa chọn: thương hay ghét, trả lời đi!”
13. Lí lẽ ngờ nghệch (ad ignorantiam). Loại ngụy
biện này, như tên gọi ám chỉ, xuất phát từ sự ngờ nghệch. Một trong
những cách nói thông thường nhất trong loại ngụy biện này mà giới ngụy
biện dùng là nếu một điều gì đó chưa được chứng minh là sai (hay giả)
thì điều đó là đúng (hay thật). Ví dụ: “Bởi vì các nhà khoa học chưa
chứng minh dioxin có thể gây ra dị thai, do đó dioxin không thể gây ra
dị thai,” hay kiểu lí luận của John Howard “Hiến pháp Úc đã tồn tại cả
trăm năm nay, và xã hội ổn định, không có lí do gì phải thay đổi hiến
pháp”.
14. Lí luận lươn trạch. Loại ngụy biện này cho rằng nếu
một sự kiện xảy ra, các sự kiện có hại khác sẽ xảy ra. Chẳng hạn như
“Nếu chúng ta hợp pháp hóa marijuana, công chúng sẽ bắt đầu hút á phiện,
và chúng ta cũng sẽ phải hợp pháp hóa á phiện. Rồi chúng ta sẽ là một
quốc gia với những người ăn bám vào xã hội. Do đó, chúng ta không thể
hợp pháp hóa á marijuana”. Hay một đoạn ví dụ khác:” Tiếc thay một cuộc
cải cách về kinh tế, bình bị, tài chánh, xã hội, nông nghiệp như vậy,
đang trên đường thành công rực rỡ: bị tan vỡ, bị huỷ bỏ chỉ vì tham vọng
đánh Đại việt của Vương An Thạch. Mà đau đớn biết bao, khi người phá vỡ
chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi. Giá như Thạch không chủ
trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ xã hội Trung quốc thay
đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung quốc sẽ là nước hùng mạnh vô song, e
rằng cứ muôn đời mặt trời vẫn nở phương Đông chứ không ngả về Tây như
hồi thế kỷ 18 cho đến nay bao giờ.”
15. Mệnh đề rời rạc. Đây là loại ngụy biện dùng hai (hay
nhiều hơn hai) mệnh đề chẳng dính dáng gì với nhau để làm thành một phát
biểu hay kết luận. Ví dụ: “Anh ủng hộ tự do dân chủ và quyền mang vũ
khí hay không?” hay “Anh đã ngưng làm ăn trái phép chưa?” Câu hỏi sau
thực ra hỏi hai vấn đề “Anh từng làm ăn trái phép?” và “Anh đã ngừng
hoạt động hay chưa?”
16. Đơn giản hóa vấn đề. Đây là một loại ngụy biện mà
người phát biểu cố tình biến một quan niệm trừu tượng thành một điều cụ
thể để bắt lấy thế thượng phong trong đối thoại (nhưng là ngụy biện). Ví
dụ: “Tôi để ý thấy anh mô tả ông ta là một người quỉ quyệt. Vậy tôi hỏi
anh cái “quỉ quyệt” đó nó nằm ở đâu trong bộ não? Anh không chỉ ra được
cho tôi; do đó, tôi có thể nói cái quỉ quyệt không có thực.”
Nhóm 4. Qui nạp sai
17. Khái quát hóa vội vã. Loại ngụy biện này cũng khá phổ
biến. Nó dùng một ví dụ hay trường hợp nhỏ và từ đó khái quát hóa cho
một cộng đồng. Chẳng hạn như “Jim Baker là một tay đạo đức giả. Do đó,
các tín đồ Cơ đốc giáo là giả dối.”
18. Khái quát hóa không đúng chỗ. Đây là loại ngụy biện mà
người sử dụng chúng thường áp dụng một qui luật chung cho một tình
huống hay một cá nhân. Chẳng hạn như “Người Phật giáo là vô thần. Anh là
phật tử, vậy anh chắc chắn là một người vô thần.”
19. Kéo dài tính tương đồng. Trong loại ngụy biện này,
người dùng nó đề nghị một điều lệ chung chung, rồi ứng dụng nó cho mọi
trường hợp và cá nhân. Ví dụ: “Tôi tin rằng chống luật pháp bằng cách
phạm luật pháp là một điều sai trái”, hay “Nhưng quan điểm đó ghê tởm
lắm, vì nó ám chỉ rằng anh sẽ không ủng hộ Martin Luther King,” hay “Anh
muốn nói rằng luật về mật mã cũng có tầm quan trọng tương đương với
phong trào giải phóng người da đen hay sao? Sao anh dám nói thế?”
20. Lí lẽ quanh co. Loại ngụy biện này thường lẩn quẩn
trong vài giả định và kết luận. Chẳng hạn như “Những người đồng tính
luyến ái nhất định không thể nắm chính quyền. Do đó, phải tống khứ những
viên chức chính phủ đồng tính luyến ái. Vì thế, những người đồng tính
luyến ái sẽ làm mọi cách để dấu diếm hành tung của họ, và họ có nguy cơ
bị tống tiền. Do vậy, những người đồng tính luyến ái không được giữa
chức vụ gì trong chính phủ.” Tức là trong một lí giải như thế, cả hai
giả thuyết và kết luận đều giống nhau.
21. Đảo ngược điều kiện. Loại ngụy biện này thường được
biểu hiện qua hình thức “Nếu A xảy ra thì B sẽ xảy ra, do đó, nếu B xảy
ra thì A sẽ xảy ra.” Ví dụ: “Nếu tiêu chuẩn giáo dục bị hạ thấp, chất
lượng tranh luận sẽ bị tồi đi. Do đó, nếu chúng ta thấy chất lượng tranh
luận suy đồi trong những năm sắp đến, thì điều đó cho thấy tiêu chuẩn
giáo dục của ta bị xuống cấp.”
22. Lợi dụng rủi ro. Ngụy biện này thường dùng một qui
luật chung và áp dụng nó cho một trường hợp cá biệt. Ví dụ: “Luật giao
thông không cho anh chạy quá 50 km/h. Cho dù cha anh sắp chết anh cũng
không được chạy quá tốc độ đó.”
23. Lợi dụng trường hợp cá biệt. Ngụy biện này thường dùng
một trường hợp cá biệt để đem ra ứng dụng cho một đám đông. Ví dụ:
“Chúng ta cho phép bệnh nhân sắp chết dùng á phiện, chúng ta nên cho
phép mọi người dùng á phiện.”
24. Kết luận lạc đề. Loại ngụy biện này thường xuất hiện
khi một kết luận chẳng dính dáng gì đến lí lẽ mà người biện luận trình
bày. Một ví dụ tiêu biểu cho trường hợp ngụy biện này là: “Độ nhiễm
arsenic trong nước ở Việt Nam chưa cao và còn trong mức độ cho phép. Dữ
kiện của Bangladesh cho thấy tình trạng nhiễm arsenic ở Việt Nam rất
trầm trọng.”
25. Ngụy biện rơm. Loại ngụy biện này cố tình xuyên tạc,
bóp méo quan điểm hay phát biểu của người khác, để làm luận điểm tấn
công. Đây là một ngụy biện, vì nó không đương đầu với cái lí lẽ đang
bàn. Chẳng hạn như: “Chúng ta nên ủng hộ chế độ cưỡng bách quân dịch.
Người ta không thích tòng quân vì họ không muốn cuộc sống bị đảo lộn.
Nhưng họ cần nhận thức rằng có nhiều điều quan trọng hơn tiện nghi trong
cuộc sống.”
Nhóm 5. Nguyên nhân giả
26. “Post hoc”. Loại ngụy biện này phát biểu rằng hai sự kiện
xảy ra, một trước và một sau, có quan hệ với nhau như nguyên nhân và hậu
quả. Ví dụ: “Liên Xô sụp đổ sau khi nhà nước theo chủ nghĩa vô thần. Do
đó, chúng ta phải từ bỏ chủ nghĩa vô thần để khỏi bị suy sụp.”
27. Ảnh hưởng liên đới. Một sự kiện được cho là có ảnh
hưởng đến một sự kiện khác, nhưng thực chất thì cả hai sự kiện đều có
cùng một nguyên nhân. Đây cũng chính là một trường hợp ngụy biện dưới
dạng “post hoc”. Ví dụ: “Chúng ta đang chứng kiến một tình trạng thất
nghiệp rất cao, vì do thiếu nhu cầu của người tiêu thụ.” (Nhưng có thể
cả hai sự kiện có nguyên nhân từ tiền lời quá cao.)
28. Ảnh hưởng không đáng kể. Đây là một loại ngụy biện
mang tính phóng đại từ một ảnh hưởng rất nhỏ. Chẳng hạn như “Hút thuốc
gây ra ô nhiễm môi trường ở Sydney” là một phát biểu đúng, nhưng ảnh
hưởng của thuốc lá đến môi trường rất khiêm tốn khi so với ảnh hưởng của
khói xe và các hãng xưởng.
29. Ảnh hưởng ngược chiều. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và
hậu quả bị đảo ngược chiều để tìm đến một kết luận mang tính ngụy biện.
Ví dụ: “Ung thư gây ra thói quen hút thuốc lá”.
30. Nguyên nhân phức tạp. Một sự kiện xảy ra có thể do
nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng người ngụy biện có thể đơn giản hóa
thành một liên hệ đơn giản. Chẳng hạn như “Tai nạn xe cộ là do đường xá
xấu” có thể đúng, nhưng tai nạn cũng có thể do người lái xe ẩu trong một
điều kiện xấu.
31. Nguyên nhân sai (Non causa pro causa). Loại ngụy biện
này xảy ra khi một điều nào đó được cho là nguyên nhân của một sự kiện,
nhưng nó chưa thực sự được chứng minh là nguyên nhân. Ví dụ: “Tôi uống
một viên aspirin và cầu nguyện thượng đế, và tôi không còn bị nhức đầu.
Như vậy thượng đế đã chữa trị tôi khỏi nhức đầu.”
Nhóm 6. Nhập nhằng
32. Lí lẽ mơ hồ. Dùng những chữ và lí lẽ mơ hồ, tối nghĩa là
một hình thức ngụy biện, nhất là khi một chữ hay câu phát biểu được dùng
với hai (hay nhiều hơn hai) ý nghĩa khác nhau. Ví dụ, chữ “miễn phí”
trong câu sau đây có thể có nhiều nghĩa khác nhau: “Có loại nhu liệu nào
rẻ hơn nhu liệu miễn phí? Nhưng để duy trì tình trạng miễn phí, chúng
ta cần phải có một hệ thống đăng kí và cung cấp giấy phép cho người
dùng.” Một ví dụ khác về cách nói lập lờ là “Các hành động hình sự là
bất hợp pháp, và tất cả các phiên tòa xử tội giết người là hành động
hình sự, vì thế tất cả các phiên tòa này bất hợp pháp”.
33. Chơi chữ (Amphiboly). Ngụy biện bằng chơi chữ
dựa vào những giả thuyết mơ hồ, nhập nhằng, do bất cẩn thận hay cách
phát biểu sai văn phạm. Chẳng hạn như một phát biểu kiểu như “Giả
thuyết: tin vào Thượng đế sẽ lấp đi khoảng trống tinh thần” là ngụy
biện, vì người “lấp đi khoảng trống tinh thần” là một điều trừu tượng,
ai muốn hiểu sao thì hiểu.
34. Trọng âm (accent). Đây là một hình thức ngụy
biện bằng cách dùng thay đổi ý nghĩa của một câu văn qua nhấn mạnh. Ví
dụ như câu phát biểu “Chúng ta không nên nói xấu về bạn bè” khác với
“Chúng ta không nên nói xấu về bạn bè” chỉ ở chỗ nhấn mạnh (gạch dưới).
Người thờ ơ có thể hiểu sai điểm nhấn mạnh của câu phát biểu.
Nhóm 7. Phạm trù sai
35. Hỗn hợp. Loại ngụy biện này thường dùng những đặc tính bề
ngoài để suy luận cho một điều gì cá biệt. Ví dụ: “Xe đạp được làm bằng
những dụng cụ nhẹ kí, do đó, xe đạp rất nhẹ”, hay “Xe hơi dùng ít xăng
dầu và không gây ra ô nhiễm môi trường bằng xe bus. Do đó, xe hơi không
gây hại cho môi trường bằng tác hại của xe bus.”
36. Tùy tiện, phi thể thức (ad hoc). Giải thích và lí lẽ
là hai điều khác nhau. Nếu muốn xác minh A, và dùng B làm bằng cớ, thì
câu phát biểu “A xảy ra bởi vì B xảy ra” là một lí lẽ. Tuy nhiên, nếu
muốn xác minh một sự thật về B, thì câu phát biểu “A xảy ra bởi vì B xảy
ra” không phải là một lí lẽ mà là một lời giải thích. Ngụy biện theo
kiểu phi thể thức là hình thức dùng giải thích sau khi đã có sự thật mà
sự thật không ứng dụng vào một bối cảnh khác. Thông thường ngụy biện phi
thể thức được khoác vào chiếc áo lí lẽ. Chẳng hạn như nếu chúng ta giả
định rằng Thượng đế đối xử công bằng với mọi người, thì những phát biểu
sau đây là những lời giải thích phi thể thức: “Tôi mới hết bệnh ung
thư”, “Cầu nguyện với Thượng đế đi, Ngài là đấng toàn năng”, “Nhưng Ngài
có chữa trị cho những bệnh nhân ung thư khác không”, “À, Thượng đế rất
huyền bí.”
Nhóm 8. Phi logic (non sequitur) và nhần lẫn trong tam đoạn luận
37. Phi logic. Ngụy biện phi logic thường xảy ra trong trường
hợp một lí lẽ mà kết luận được rút ra từ những tiêu đề không dính dáng
gì với nhau. Chẳng hạn như “Người Ai Cập đã từng làm nhiều khai quật để
xây dựng những kim tự tháp, họ chắc chắn phải rất thạo về cổ sinh vật
học.”
38. Loại bỏ tiền đề. Ngụy biện loại này thường xảy ra dưới
hình thức “nếu A thì B, không phải A thì không phải B.” Ví dụ: “Nếu tôi
ở Sài Gòn thì tôi đang ở Việt Nam. Tôi hiện không ở Sài Gòn, do đó, tôi
không ở Việt Nam”.
39. Giả định hư. Đây là một loại ngụy biện bằng cách dùng
kỹ thuật phỏng vấn. Một trường hợp cổ điển là “Ông đã ngưng đánh vợ
chưa?” Tức là một câu hỏi với một giả định rằng người được hỏi từng hành
hung vợ. Đây là một mẹo mà giới luật sư thường hay dùng trong thẩm vấn.
“Ông dấu tiền ăn cắp đó ở đâu?” Giới chính khách cũng thích mẹo này,
đại khái như “Bao giờ thì nhóm EU này sẽ không còn xâm phạm vào công
việc của chúng ta?”
40. Ngụy biện bốn ngữ. (Một tiêu chuẩn của tam đoạn luận
gồm có 3 chữ). Ví dụ như trong câu phát biểu “Tất cả chó là thú vật, và
tất cả mèo là loài động vật có vú, do đó tất cả chó là loài động vật có
vú,” có bốn chữ: chó, mèo, động vật, và động vật có vú.
41. Đứt đoạn. Hai sự vật riêng biệt được xem là có liên hệ
nhau nếu chúng có chung đặc tính. Người ngụy biện lợi dụng chữ giữa của
một phát biểu để đưa đến một kết luận sai. Chẳng hạn như trong câu “Tất
cả người Nga là nhà cách mạng, và tất cả những người theo chủ nghĩa vô
chính phủ cũng là nhà cách mạng, do đó, tất cả những người theo chủ
nghĩa vô chính phủ là người Nga,” chữ chính giữa là “nhà cách mạng”.
Nhưng kết luận này sai, vì dù những người theo chủ nghĩa vô chính phủ và
người Nga là những người cách mạng, nhưng họ có thể là hai nhóm cách
mạng khác nhau.
Nhóm 9. Các nhầm lẫn khác
42. Dẫn chứng bằng giai thoại. Một trong những ngụy biện phổ
biến nhất và đơn giản nhất là dựa vào những câu chuyện có tính vụn vặt,
hay giai thoại. Chẳng hạn như “Có hàng khối bằng chứng cho thấy thượng
đế hiện hữu và vẫn ban phép mầu hàng ngày. Mới tuần rồi đây, tôi có đọc
được một câu chuyện về một cô gái sắp chết vì ung thư, cả gia đình cô đi
cầu nguyện trong nhà thờ, và chỉ vài ngày sau cô hết bệnh.” Dùng kinh
nghiệm cá nhân để minh họa cho một luận điểm là một điều hoàn toàn hợp
lí, nhưng dùng những giai thoại như thế sẽ chẳng chứng minh gì. Một anh
bạn có thể cho rằng anh từng gặp Elvis ở một siêu thị nào đó, nhưng
những người chưa gặp Elvis bao giờ thì cần nhiều bằng chứng xác thực
hơn.
43. Lợi dụng cổ tích. Đây là một loại ngụy biện cho rằng
những gì đúng hay tốt chỉ đơn giản vì chúng là cổ xưa, và những người
theo cách ngụy biện này thường nói “hồi nào đến giờ ai cũng vậy.” Chẳng
hạn như “Hàng trăm năm nay, Úc chịu dưới sự cai trị của Hoàng gia Anh,
và là một nước thịnh vượng. Một thể chế tồn tại lâu dài như thế ắt phải
là một thể chế ưu việt.”
44. Dựa vào cái mới (ad novitatem). Ngược lại với
loại ngụy biện dựa vào cái cũ, ngụy biện dựa vào cái mới cho rằng một
điều gì đó tốt hơn và đúng hơn đơn giản chỉ vì nó mới hơn cái khác.
“Windows 2000 phải tốt hơn Windows 95, Windows 2000 mới được thiết kế
lại năm ngoái.”
45. Lí lẽ của đồng tiền. Loại ngụy biện này thường dựa vào
một niềm tin duy nhất rằng đồng tiền là một tiêu chuẩn của sự đúng đắn.
Những người có nhiều tiến có khả năng đúng hơn những người ít tiền.
Chẳng hạn như “Nhu liệu của hãng Microsoft đương nhiên là tốt hơn; nếu
không thì làm sao Bill Gates có thể trở nên tỉ phú như thế”.
46. Dựa vào cái nghèo. Ngược lại với ngụy biện dựa vào sự
giàu có, có một loại ngụy biện khác dựa vào sự nghèo khổ. Chẳng hạn như
“Các vị sư có khả năng hiểu thấu được ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì họ
từ bỏ mọi xa hoa của cuộc sống.”
47. Điệp khúc (ad nauseam). Loại ngụy biện này cho
rằng một lí lẽ càng được lặp đi lặp lại nhiều chừng nào thì nó sẽ được
người ta chấp nhận là đúng. Do đó, người ngụy biện thường chỉ lặp đi lặp
lại những phát biểu, bất kể là quái dở thế nào, cho đến khi người đối
thoại mệt mỏi không còn muốn nghe nữa.
48. Lạm dụng thiên nhiên. Đây là một ngụy biện rất thông
thường trong giới chính trị gia, mà trong đó họ tìm cái tương đồng giữa
một kết luận nào đó và một khía cạnh của thế giới tự nhiên, rồi từ đó
phát biểu rằng kết luận đó là không thể tránh khỏi. Chẳng hạn như “Đặc
điểm của thế giới tự nhiên là cạnh tranh; động vật đấu tranh chống nhau
để làm chủ tài nguyên thiên nhiên. Chủ nghĩa tư bản, một hình thức cạnh
tranh để làm chủ tư liệu, chỉ đơn giản là một phần của con người sống
trong thế giới tự nhiên. Đó cũng là cách mà thế giới tự nhiên vận hành.”
Một hình thức khác của lạm dụng thiên nhiên là lí luận cho rằng
bởi vì con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên, chúng ta phải bặ bắt
chước hành động theo những gì chúng ta thấy trong thế giới tự nhiên, và
làm khác đi là “phi tự nhiên”. Ví dụ: “Đồng tính luyến ái dĩ nhiên là
không tự nhiên. Có khi nào anh thấy hai thú vật cùng giới tính giao phối
với nhau không?”
49. Ngụy biện “Tu quoque”. Đây là một trong những
ngụy biện rất phổ biến. Nó dựa vào lí lẽ rằng một hành động có thể chấp
nhận được bởi vì người đối nghịch đã làm. Chẳng hạn như “Anh là một
người lừa dối.” “Rồi sao? Anh cũng là một tay lừa dối vậy.”
50. Lạm dụng thống kê. Thống kê thường được giới ngụy biện
sử dụng tối đa, vì theo họ thống kê có thể dùng để “chứng minh” bất cứ
điều gì. Người ta có thể vặn vẹo hai con số 1 và 3 điểm để sản xuất
những phát biểu như “khác nhau 2 điểm”, “cao gấp 3 lần”, hay “tăng
200%”; người ta có thể dựa vào ý kiến đồng tình của 4 người trong 5
người để cho là “80% người được thăm dò”, hay thậm chí “đa số cộng đồng”
đồng ý với một luận điểm nào đó. Tức là những khái quát hoá một cách
vội vã, hay dựa vào một mẫu số cực kỳ thấp, thấp đến độ nó không có
nghĩa lí gì. Thực ra, thống kê không chứng minh điều gì cả. Thống kê chỉ
là một phương tiện hay thuật toán dùng để loại bỏ những trường hợp khả
dĩ hay không khả dĩ. Vì có quá nhiều ngụy biện thống kê, nên vấn đề này
sẽ được bàn tiếp trong một dịp khác. Tuy nhiên, những ai thích tìm hiểu
vấn đề ngụy biện thống kê có thể tìm đọc cuốn sách rất nổi tiếng của
Darrell Huff, có tựa đề là “How to lie with statistics” (tạm dịch: “Làm
thế nào để lừa dối bằng thống kê”).
Có thể nói những loại ngụy biện trên đây có những đặc điểm chung là
(a) phát biểu không dựa vào lí lẽ logic; (b) các định đề không vững để
đi đến một kết luận; và (c) đưa ra giả định không đúng. Ngụy biện, do
đó, nói cho cùng, là một sản phẩm của sự lười suy nghĩ. Và hầu như trong
chúng ta, ai cũng có ít nhất là một lần lười suy nghĩ. Do đó, nếu điểm
qua những loại ngụy biện trên đây, chúng ta tự cảm nhận rằng trong quá
khứ mình chắc cũng có lần phạm vào lỗi lầm của ngụy biện. Điều này có
thể đúng, và không nên lấy làm ngạc nhiên, vì các nhà thông thái, và
ngay cả giới có huấn luyện về logic học cũng đôi khi, vì cố ý hay vô
tình, ngụy biện. Giới chính trị gia và truyền thông là những người cực
kỳ nổi tiếng về ngụy biện.
Nhưng tại sao những ngụy biện vẫn còn có mặt trên báo chí? Theo
tôi, bởi vì chúng vẫn có khách hàng. Vẫn có người, dù ít hay nhiều, tin
tưởng vào ngụy biện, vì nó thuận nhĩ, trơn tru, và nhất là không thách
thức. Sờ một hòn đá trơn tru đem lại cho chúng ta một cảm giác khoan
khoái dễ chịu hơn là sờ một hòn đá lởm chởm, hay ngồi trên một cái ghế
ghồ ghề. Người ta thích sự trơn tru, bởi vì trơn tru là dấu hiệu của sự
khoan khoái, dễ chịu, là cái khoảng thời gian giải lao, không cần sự
thách thức.
Có lẽ, ở một khía cạnh nào đó, điều này cũng không đến nỗi tệ,
bởi vì những ngụy biện phản ánh sự thành công [hay có người nói sự phong
phú] của ngôn ngữ trong việc tách rời giữa những gì thô thiển, gồ ghề
với những gì hoàn thiện, mĩ miều. Nhưng sự trơn tru của các vật thể và
ngôn ngữ ngày nay đem lại cho chúng ta một cảm giác giả tạo về thế giới
thực của các vật thể. Những kỳ kẹt xe trên đường xá mới để lộ trái tim
phức tạp của một thành phố. Tương tự, một sự cố của internet sẽ nhắc nhở
chúng ta về tình trạng hỗn mang và phức tạp của hệ thống thông tin điện
tử. Sự hỗn mang và phức tạp là thực. Trơn tru, tròn trĩnh có thể là giả
tạo. Những câu văn ngụy biện có thể chỉ là những lời phát biểu lém lỉnh
thay vì lịch thiệp, hàm chứa mánh khóe thay vì thân thiện. Có thể nói,
ngụy biện là những lối sáo ngữ liến thoắng nhằm vào mục đích lôi cuốn
người nghe/đọc, thay vì cung cấp cho họ một sự thực.
Bởi vì ngụy biện là những lí lẽ mà bề ngoài có vẻ logic, nên
chúng có khả năng thuyết phục những người không chịu khó suy nghĩ, nhất
là những người còn mang nặng cảm tính. Điều này giải thích tại sao nhiều
người trong chúng ta tiếp nhận một cách thụ động quá nhiều những điều
càn rỡ về thế giới chung quanh, kể cả những niềm tin tôn giáo, những mê
tín dị đoan, những triết lí quái đảng, những thông tin sai lạc, v.v..
Cái tác hại của việc tiếp nhận thụ động này là nó làm cho chúng ta trở
nên nô lệ với cảm tính, và dễ dàng trở thành những tín đồ cuồng tín của
những người “lãnh đạo” chính trị hay tôn giáo.
Để không trở thành những nô lệ, chúng ta cần phải suy nghĩ nghiêm
túc. Suy nghĩ nghiêm túc là một quá trình hoạt động tri thức nhằm ý
niệm hóa, ứng dụng, phân tích, tổng hợp, và (hay) đánh giá những thông
tin được thu thập từ quan sát, kinh nghiệm, phản ánh, lí luận, hay liên
lạc, như là một niềm tin cho hành động. Chúng ta cần phải dựa vào những
giá trị tri thức với những đặc điểm như trong sáng, chính xác, nhất
quán, có liên hệ, bằng chứng tốt, lí lẽ hợp lí, có chiều sâu, và công
bình. Tức là, trước một câu phát biểu hay một đề nghị, chúng ta phải
thẩm định lại kết cấu và nguyên tố của phát biểu hay đề nghị đó. Những
kết cấu và nguyên tố này là: mục đích, vấn đề, giả định, quan niệm, bối
cảnh, kết luận, ngụ ý, hậu quả, phạm vi tham khảo, và quan điểm khác.
Người Việt chúng ta thường rất tự hào về những đối thoại [mà
chúng ta cho là “thông minh”] giữa Trạng Quỳnh và Chúa Trịnh ngày xưa.
Nhưng nói một cách công bằng và theo tiêu chuẩn của lí luận logic, thì
những trao đổi của Trạng Quỳnh hay tương tự chỉ là những ngụy biện ở
trình độ thô sơ nhất [1].
Nhưng có điều đáng buồn là những đối thoại kiểu Trạng Quỳnh, mà trong
đó sự hơn thua nhau từng câu nói, bắt bẽ nhau từng chữ, vặn vẹo ý nghĩa
của từng câu văn, v.v… lại đi vào sử sách, như thể để làm gương cho thế
hệ sau này. Mà làm gương thật. Cho đến ngày nay, có người vẫn còn cho đó
là một biểu tượng của sự thâm thúy, thông minh của dân tộc, là phản ánh
sự phong phú của ngôn ngữ Việt, và đem ra ứng dụng trong tranh luận.
Theo dõi báo chí, chúng ta thấy những hình thức tấn công cá nhân
(thay vì tấn công vào luận điểm), xuyên tạc ý tưởng, chụp mũ, suy luận
theo cảm tính, mỉa mai, đơn giản hóa vấn đề, v.v… xuất hiện hầu như hàng
ngày, có khi hàng giờ. Vì những tần số của những loại ngụy biện xuất
hiện quá nhiều như thế, nó thành một sự rập khuôn. Theo thời gian, rập
khuôn trở thành “truyền thống”. Hậu quả của cái truyền thống này là
những ai ra ngoài cái khuôn sáo của ngụy biện đều có thể bị xem là phi
chính thống, dẫn đến một lối suy nghĩ và phán xét kì quặc kiểu “anh/chị
không thuộc nhóm của tôi, vậy thì anh/chị thuộc nhóm bên kia,” “anh khen
Việt Nam, vậy anh là cộng sản,” “giọng nói anh ‘Bắc kì 75’, vậy anh là
cộng sản,” hay “Nhà nước cho anh ra ngoài này trình diễn, chắc anh là
cộng sản đi tuyên truyền”… Anh ở phía này, tôi bên kia. Nói tóm lại, đó
là một lối phân định theo hai giá trị: xấu và tốt, đen và trắng, hay
địch và ta một cách cứng nhắc. Cách phân định này thể hiện một sự nghèo
nàn về trí tuệ, hay lười biếng suy nghĩ. Chỉ cần đặt vấn đề ngược lại
một chút, hay phát triển vấn đề xa hơn một chút, ai cũng có thể thấy lối
phân chia có/không này không thể đem đến một đáp số cho một vấn đề nào
cả.
Trong cái sự thực phức tạp, mờ mờ ảo ảo của vấn đề, có cái đẹp
riêng. Không phải cái đẹp trơn tru, tròn trĩnh, nhưng là cái đẹp khắt
khe của sự thật. Tương tự, một lời phát biểu nghịch lí có cái đẹp của
nó, vì nó có thể đánh thức chúng ta về một thế giới phức tạp, một thế
giới không nằm gọn trong đúng/sai, tốt/xấu, bạn/thù. Có lẽ đã đến lúc
chúng ta nên vượt qua chính mình bằng cách cho các tế bào trí tuệ có cơ
hội làm việc.
Nguồn: Internet + Sách Cãi gì cũng thắng / Viết gì cũng đúng (Alphabooks)
Nguồn: Internet + Sách Cãi gì cũng thắng / Viết gì cũng đúng (Alphabooks)
0 nhận xét:
Post a Comment